Triệu chứng thai ở ngoài tử cung
Mang thai ngoài tử cung có thể gây chảy máu vào ổ bụng, thậm chí gây đe dọa đến tính mạng, và sức khỏe của thai phụ khi với thai bị vỡ. Những nguy hại mà nó gây ra là hết sức khó lường, do đó việc phòng ngừa, phát hiện tình trạng thai ngoài tử cung là điều hết sức cần thiết. Để làm được điều đó bạn cần phải nắm được những triệu chứng mang thai ngoài tử cung, vậy những triệu chứng thai ngoài tử cung ở vòi trứng là gì?
Thai ngoài tử cung là tình trạng thai không nằm ở trong tử cung mà ở bên ngoài tử cung (như vòi trứng). Hiện tượng thai ngoài tử cung do rất nhiều nguyên nhân gây ra như: do chị em bị tắc, hẹp vòi trứng, hay trứng di chuyển chậm dẫn đến phôi thai không làm tổ và phát triển trong lòng tử cung mà nằm ngoài tử cung và phát triển… Khi không may bị mang thai ngoài tử cung, chị em thường có một số những triệu chứng như:
-Rối loạn kinh nguyệt: đây là dấu hiệu thường gặp ở những chị em mang thai ngoài tử cung. Có những trường hợp chị em còn bị tắt kinh, sau đó ra máu thất thường (máu có màu đỏ tươi), hay có cảm giác buồn nôn, nôn…
-Đau bụng: khi mang thai ngoài tử cung, chị em sẽ thấy bụng sẽ đau âm ỉ, và sẽ dữ dội hơn nếu như thai vỡ. Trong trường hợp này chị em thường có cảm giác mệt lả, ngất xỉu, và có thể ảnh hưởng đến tính mạng nếu không sớm được phát hiện, cấp cứu kịp thời.
-Chảy máu ở âm đạo: hiện tượng này xuất hiện muộn hơn, máu chảy ra thường không nhiều nhưng kéo dài, và có màu đen sậm. Nguyên nhân gây nên tình trạng này có thể là do thai phát triển và gây rạn nứt vòi trứng. Chị em cần cảnh giác tình trạng này do rất dễ bị nhầm với kinh nguyệt.
Hi vọng rằng với những triệu chứng mang thai ngoài tử cung đã nêu trên, bạn đã có thêm được những kiến thức bổ ích. Qua đó có thể sớm phát hiện, ngăn ngừa những nguy hại mà nó có thể gây ra với bản thân.
Mang thai ngoài tử cung có thể gây nên những ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của chị em, thậm chí nó còn có thể gây đe dọa đến tính mạng của chị em. Do đó khi thấy những triệu chứng thai ngoài tử cung ở vòi trứng đã nêu trên, bạn nên sớm đến những cơ sở y tế để được khám, và can thiệp kịp thời. Tránh những nguy hại mà nó có thể gây ra, và bảo vệ tính mạng sức khỏe nói chung, sức khỏe sinh sản của bản thân nói riêng được tốt hơn.